Phụng sự Lưu Ẩn Nam_Hán_Cao_Tổ

Năm 901, người kế vị Lý Tri Nhu là Từ Ngạn Nhược qua đời, di biểu cho Đường Chiêu Tông để tiến cử Lưu Ẩn làm lưu hậu, Lưu Ẩn sau được nhận chức vụ này.[8] Lưu Trắc tiếp tục phục vụ dưới quyền anh trai. Năm 902, Kiền châu[chú 3] thứ sử Lô Quang Trù (盧光稠) tiến công Thanh Hải, chiếm Thiều châu[chú 4] và giao châu này lại cho con trai là Lô Diên Xương, sau đó bao vây Triều châu[chú 5]. Lưu Ẩn đem quân đẩy lui Lô Quang Trù khỏi Triều châu, sau đó chuẩn bị tiến công Thiều châu. Lưu Trắc cho rằng quân của Lô Diên Xương có viện binh từ Kiền châu, nên quân Thanh Hải không thể thành công nếu tiến công trực tiếp. Lưu Ẩn nghe theo, cho bao vây Thiều châu để khiến sức mạnh phòng thủ của Lô Diên Xương suy yếu. Tuy nhiên, chiến lược này lại phản tác dụng do mức nước sông dâng cao, quân Thanh Hải bị gián đoạn nguồn cung lương thảo. Sau đó, Lô Quang Trù đem binh từ Kiền châu đến cứu viện, đẩy lui Lưu Ẩn khỏi Thiều châu.[9]

Năm 904, Đường Ai Đế bổ nhiệm Lưu Ẩn làm Thanh Hải tiết độ sứ.[10] Lưu Trắc trở thành tiết độ phó sứ. Theo ghi chép, ngoài xung đột với Lô Quang Trù, quanh lãnh địa của Lưu Ẩn còn có các quân phiệt khác: Khúc Hạo ở Giao châu[chú 6]; Lưu Sĩ Chính (劉士政) ở Quế châu[chú 7]; Diệp Quảng Lược (葉廣略) ở Ung châu[chú 8]; Bàng Cự Chiêu (龐巨昭) ở Dung châu [chú 9]; Lưu Xương Lỗ (劉昌魯) tại Cao châu[chú 10]; và Lưu Tiềm (劉潜) tại Tân châu[chú 11]. Thêm vào đó, ở phía đông Châu Giang, có khoảng 70 trại lớn nhỏ không công nhận quyền uy của Lưu Ẩn. Sau khi Lưu Ẩn giao phó quân sự lại cho Lưu Trắc, Lưu Trắc dần dần trục xuất hoặc buộc các quân phiệt phải quy phục, trở thành danh tướng ở Lĩnh Nam.[5]

Một trong số các chiến dịch diễn ra vào khoảng năm 910 (khi đó Lưu Ẩn là một chư hầu của triều Hậu Lương), Lưu Trắc tiến công Lưu Xương Lỗ ở Cao châu. Lưu Xương Lỗ đẩy lui cuộc tiến công của Lưu Trắc, song lại suy tính rằng sẽ không thể chống lại huynh đệ họ Lưu trong một thời gian dài, do vậy, Lưu Xương Lỗ cùng với Bàng Cự Chiêu quyết định quy phục Sở vương Mã Ân. Mã Ân khiển quân đến hộ tống Lưu Xương Lỗ và Bàng Cự Chiêu đến Sở, khiển tướng Diêu Ngạn Chương (姚彥章) đóng quân tại Dung châu.[11]

Năm 911, Lưu Ẩn lâm bệnh nặng, ông ta dâng biểu cho triều đình Hậu Lương để tiến cử Lưu Trắc làm lưu hậu, sau đó liền qua đời. Lưu Trắc kế thừa quyền cai quản Thanh Hải quân, và một thời gian ngắn sau, Hậu Lương Thái Tổ bổ nhiệm Lưu Trắc làm Thanh Hải tiết độ sứ.[12] Ông lại đổi tên thành Lưu Nham.[5]

Liên quan